Trong ánh sáng dịu của buổi sáng, Phan Thảo Phương ngồi bên cửa sổ, bàn tay khẽ lật trang sách, đôi mắt sáng lên khi nhắc về hành trình từ một cô học sinh chuyên Văn đến nữ đạo diễn, diễn giả và doanh nhân trẻ. Câu chuyện của cô không chỉ là những giải thưởng hay bằng cấp mà là một hành trình trải nghiệm, tìm kiếm tri thức và giá trị sống. Đây là câu chuyện của thế hệ phụ nữ mới đa năng, bản lĩnh và luôn không ngừng học hỏi.
Phòng làm việc của Phan Thảo Phương được trang trí đơn giản nhưng tinh tế. Vài chậu cây nhỏ, giá sách xếp gọn các cuốn sách về kinh tế, văn học, đặc biệt là nhiều tựa sách “best-seller”, sách tâm lý. Cạnh đó là máy tính bảng và một số vật dụng nhỏ nhắn, xinh xắn phục vụ cho nghề nghiệp. Ánh sáng tự nhiên len qua khung cửa sổ, tạo cảm giác vừa ấm áp vừa tĩnh lặng…
HÀNH TRÌNH TỪ HỌC SINH CHUYÊN VĂN ĐẾN ĐẠO DIỄN, DIỄN GIẢ
PV: Nhìn lại hành trình từ cô học trò yêu Văn đến nữ đạo diễn, diễn giả đa năng, điều gì khiến chị cảm thấy tự hào nhất?
Có lẽ điều khiến tôi tự hào nhất không phải là những danh xưng, mà là hành trình tôi chưa từng dừng lại.
Tôi bắt đầu từ chữ Văn: cái gốc giúp mình biết lắng nghe, thấu hiểu và nhìn cuộc đời bằng nhiều góc độ. Sau này, khi bước vào điện ảnh, rồi làm sản xuất, làm diễn giả, làm doanh nhân… tôi nhận ra mọi con đường đều có điểm chung. Nếu mình làm bằng tâm, bằng trí và bằng sự tử tế, thì mỗi công việc đều trở thành một “bài thơ” của riêng mình.
Tôi tự hào vì đã dám thử, dám làm và dám sai. Vì mỗi lần thất bại, tôi học được một điều mới về chính mình. Và tôi biết ơn vì trong mọi giai đoạn, mình vẫn giữ được sự hồn nhiên của cô học trò năm nào, một cô bé tin rằng tri thức, sáng tạo và tình người luôn là ba điều không thể tách rời.
Với tôi, hạnh lớn nhất là được sống đúng với giá trị của mình, và mỗi dự án, mỗi chương trình, mỗi bài nói đều có thể chạm tới ai đó, dù chỉ một người thôi, để họ cảm thấy được truyền cảm hứng, được chữa lành, hoặc đơn giản là thấy mình không cô đơn.
PV: Chị từng đạt giải Học sinh giỏi Văn cấp quốc gia hai lần. Văn chương đã ảnh hưởng thế nào đến việc chị chọn lựa nghề nghiệp cũng như cách chị kể chuyện bằng hình ảnh và cảm xúc hôm nay?
Tôi nghĩ, văn chương không chỉ là môn học mà là một cách nhìn thế giới. Từ nhỏ, khi bắt đầu đọc sách cho đến những năm học Văn ở trường chuyên, tôi đã cảm nhận rằng mỗi con chữ là một thế giới, mỗi chi tiết nhỏ đều có linh hồn.
Và khi sau này bước vào điện ảnh, sân khấu hay truyền thông, tôi nhận ra mình vẫn đang viết, chỉ là bằng một chất liệu khác: ánh sáng, hình ảnh, âm thanh và cảm xúc con người.



Văn chương dạy tôi cách nghe một câu chuyện trước khi kể nó, cách nhìn thấy nỗi buồn trong ánh mắt, niềm vui trong nụ cười…những thứ đôi khi máy quay không ghi được, nhưng trái tim người làm nghề phải cảm được. Có lẽ vì vậy, tôi luôn trân trọng tiếng Việt, một ngôn ngữ mềm mại mà mạnh mẽ, tinh tế mà sâu sắc.
Dù làm phim, viết kịch bản hay dẫn dắt các buổi nói chuyện, tôi vẫn tin sức mạnh lớn nhất của người kể chuyện là cách chọn từ, cách chạm vào lòng người bằng lời nói. Văn học cho tôi gốc rễ, nghệ thuật cho tôi đôi cánh. Và giữa hai điều ấy, tôi chỉ đơn giản muốn được tiếp tục kể những câu chuyện chạm vào trái tim bằng ngôn ngữ của cảm xúc và bằng tinh thần của người Việt.

PV: Trong suốt thời kỳ tuổi trẻ, đâu là bước ngoặt khiến chị nhận ra mình muốn trở thành người sáng tạo nội dung và truyền cảm hứng cho người khác?
Tôi nghĩ bước ngoặt thật sự đến trong giai đoạn dịch bệnh. Khi cả thế giới phải dừng lại, mọi người đều cách ly trong những không gian riêng: im ắng, lo âu và có phần cô đơn. Lúc đó, tôi và ekip không thể đi quay, không thể làm những chương trình như trước. Nhưng thay vì ngồi yên, tôi tự hỏi: “Mình có thể làm gì để cùng mọi người vượt qua giai đoạn này một cách nhẹ nhàng hơn?” Và thế là tôi bắt đầu quay những video đầu tiên, không phải với tư cách một đạo diễn hay diễn giả, mà đơn giản là một người bạn đồng hành. Tôi chia sẻ những cảm xúc thật, những điều nhỏ bé nhưng tích cực, với mong muốn giúp ai đó cảm thấy được thấu hiểu, được an ủi, được tiếp thêm năng lượng.
Chính từ đó, mọi người gọi kênh của tôi là “Ở đây có tích cực.” Sau này tôi lấy đó làm slogan và làm tên luôn cho một talkshow mà tôi làm cho đài truyền hình.
Thật ra nó không chỉ là một slogan, mà là tinh thần tôi muốn giữ cho mình và lan tỏa đến người khác, rằng dù cuộc sống có nhiều biến động, ta vẫn có thể chọn cách nhìn mọi thứ bằng ánh sáng, bằng sự biết ơn và bằng lòng nhân hậu.
Tôi không nghĩ mình “trở thành” người truyền cảm hứng. Tôi chỉ nghĩ, khi mình sống thật, chia sẻ thật, thì cảm hứng tự khắc lan toả.
PV: Vậy khi làm đạo diễn, chị quan niệm thế nào là một tác phẩm “chạm được đến trái tim người xem”?
Với tôi, một tác phẩm chạm được đến trái tim người xem không nằm ở kinh phí lớn hay kỹ thuật hoành tráng, mà ở việc nó chạm vào những vùng cảm xúc thật nhất, nơi những điều con người ít khi nói ra.
Con người luôn ghi nhớ những trải nghiệm khiến họ cảm thấy được thấu hiểu. Khi một nhân vật khóc, nếu khán giả cũng thấy tim mình nhoi nhói, không phải vì diễn viên diễn hay, mà vì họ nhìn thấy một phần của chính mình trong đó. Đó là cơ chế đồng cảm (empathy resonance) một phản ứng tự nhiên khi cảm xúc được phản chiếu. Và người đạo diễn, người kể chuyện, nếu đủ tinh tế, có thể chạm vào vùng đó mà không cần phô trương.
Trong một dự án phim tốt nghiệp tôi từng thực hiện, có một cảnh rất nhỏ: người cha im lặng nhìn chiếc ghế trống bên cạnh bàn ăn, không lời thoại, không nhạc nền. Nhưng khi chiếu xong, nhiều khán giả nói họ rơi nước mắt.
Tôi nhận ra, đôi khi sự im lặng lại là ngôn ngữ mạnh nhất, vì nó để người xem được quyền điền vào cảm xúc của họ.
Một tác phẩm chạm đến trái tim, là khi nó không bắt người ta phải khóc, mà khiến họ muốn được khóc. Là khi khán giả xem xong tác phẩm và mang theo một suy nghĩ, một hình ảnh, hay chỉ một cảm giác lặng nhưng đủ để họ nhìn thế giới dịu dàng hơn một chút. Đó chính là hiệu ứng đồng cảm tích cực (positive contagion) khi nghệ thuật trở thành cầu nối chữa lành giữa người kể và người nghe. Và tôi nghĩ, đó là lý do khiến mình chọn con đường làm đạo diễn, làm người kể chuyện, suốt chừng ấy năm: không để chứng minh điều gì, mà để nhắc mọi người rằng chúng ta vẫn có thể chạm vào nhau bằng cảm xúc, ngay cả khi chẳng cần nói gì.

PV: Còn khi đứng trên sân khấu với vai trò diễn giả, điều gì khiến chị thấy mình đang thực sự sống đúng với sứ mệnh?
Mỗi lần đứng trên sân khấu, tôi không nghĩ mình đang “truyền cảm hứng” cho ai. Tôi chỉ thấy mình đang kể một câu chuyện, câu chuyện thật của chính mình, của những người tôi từng gặp, và của những cảm xúc mà đôi khi người ta quên gọi tên.
Có những lúc tôi nhìn thấy ánh mắt người nghe rưng rưng, có người lặng lẽ cúi đầu, có bạn trẻ chủ động lại gần sau buổi chia sẻ chỉ để nói một câu: “Em thấy nhẹ lòng hơn rồi”. Với tôi, chính những khoảnh khắc đó là khi mình biết: mình đang sống đúng với sứ mệnh của mình. Con người chỉ có thể được chạm đến khi họ cảm thấy an toàn. Và tôi nghĩ, công việc của một diễn giả không phải là mang đến thật nhiều “chiến lược sống”, mà là tạo ra một không gian an toàn cho cảm xúc, nơi người ta được phép yếu đuối, được khóc, được thừa nhận nỗi sợ của mình mà không bị phán xét.
Khi tôi chia sẻ, tôi không đứng ở vị thế “người dạy”, mà ở vị thế “người cùng đi.”
Tôi nói về những sai lầm, những lần tôi cũng tổn thương, cũng mất phương hướng nhưng rồi học được cách quay về bên trong để chữa lành và bắt đầu lại. Tôi tin sứ mệnh của mình không phải là “dạy người khác sống tốt hơn”, mà là đánh thức lòng trắc ẩn trong mỗi người, giúp họ nhận diện và đồng hành cùng những cảm xúc mà chính bản thân họ đã bỏ quên để họ tự nhìn ra cách sống tốt với chính mình. Và khi buổi nói chuyện kết thúc, nếu ai đó ra về với ánh mắt nhẹ hơn, trái tim dịu hơn, thì với tôi đó là một buổi diễn thuyết trọn vẹn. Không phải vì tôi nói hay, mà vì tôi đã thật.

- SÁNG TẠO KHÔNG CHỈ ĐỂ NỔI TIẾNG MÀ ĐỂ CHẠM LÒNG NGƯỜI
PV: Giữa ba lĩnh vực chị theo đuổi là kinh doanh, điện ảnh và tâm lý học, điều gì kết nối chúng lại trong triết lý sống và làm việc?
Nhiều người nhìn vào sẽ thấy ba lĩnh vực ấy rất khác nhau. Nhưng với tôi, chúng lại cùng chung một “trục” đó là con người.
Làm điện ảnh, tôi quan sát con người qua ánh sáng, hành động, và những điều họ không nói. Làm kinh doanh, tôi học cách thấu hiểu nhu cầu, nỗi sợ, và động lực ẩn sau mọi quyết định. Còn học tâm lý, tôi đi sâu hơn để hiểu cấu trúc của cảm xúc, những tổn thương, và cơ chế mà mỗi người dùng để bảo vệ chính mình. Tất cả những điều đó giúp tôi nhìn thế giới đa chiều hơn, ít phán xét hơn và làm việc cũng bằng sự tử tế hơn.

Ở góc nhìn tâm lý học, khi ta hiểu được hành vi là kết quả của cảm xúc, thì thay vì “quản lý người khác”, ta học cách kết nối và đồng hành. Và tôi tin, dù là trong doanh nghiệp, trên phim trường hay trong một buổi chia sẻ, sự thấu cảm vẫn là thứ tạo nên hiệu quả lớn nhất.
Ba lĩnh vực ấy, với tôi, giống như ba dòng sông chảy về cùng một biển: biển của con người, cảm xúc và giá trị nhân văn, cũng chính là gốc rể văn học, con người mà tôi được vun bồi từ nhỏ mà tôi đã chia sẻ ở trên. Tôi không muốn chọn giữa lý trí hay cảm xúc, giữa thành công hay bình an. Tôi muốn sống ở điểm giao của chúng, nơi mà mình vừa được làm việc có ý nghĩa, vừa được sống đúng với lòng mình. Có lẽ, đó cũng chính là “triết lý sống” tôi luôn giữ, tôi hay nói vui với bạn bè hay cộng sự là tôi theo thuyết cân bằng: hiểu để yêu, làm để chạm, và sống để lan toả.




PV: Người ta thường nói “người giỏi nhiều thứ dễ bị phân tán” nhưng chị lại làm được tất cả. Bí quyết của chị để duy trì kỷ luật và cảm hứng là gì?
Tôi nghĩ, người ta chỉ bị phân tán khi làm nhiều việc mà không biết mình đang làm vì điều gì. Còn khi mình hiểu rõ mục đích của từng việc rằng nó phục vụ cho giá trị cốt lõi nào trong mình, thì mọi thứ tự nhiên sẽ sắp hàng. Với tôi, dù làm đạo diễn, kinh doanh hay nói chuyện trước công chúng, tất cả đều xoay quanh: con người và cảm xúc. Mỗi dự án là một cách khác nhau để kể chuyện, để kết nối, để chữa lành nên chúng không tách biệt, mà bổ sung cho nhau.
Về kỷ luật, tôi không cố ép mình theo khuôn mẫu cứng nhắc, mà chọn kỷ luật mềm tức là hiểu mình cần gì, và tôn trọng nhịp năng lượng của bản thân. Có ngày tôi làm việc từ sáng đến khuya vì đang “flow” cảm hứng, nhưng cũng có ngày tôi cho phép mình dừng lại để nạp lại năng lượng, đọc sách, đi chùa, hoặc chỉ ngồi yên với nến và trà.
Cảm hứng không phải là thứ đến từ bên ngoài, mà là trạng thái kết nối sâu bên trong.
Khi mình hiểu mình, mình không cần chạy theo động lực, vì cảm hứng sẽ tự sinh ra từ sự hiện diện. Nên có lần tôi trả lời phỏng vấn hỏi tôi rằng có bao giờ tôi hết cảm hứng sáng tạo không? Tôi đã trả lời cảm hứng sáng tao trong tôi đặt trong một nồi cơm Thạch Sanh, nó cứ luôn vun đầy, nếu có lúc nào nó vơi đi, thì là lúc tôi đã mải miết chạy đi sai quỹ đạo, tôi sẽ quay về lại với chính mình thì nó lại đầy lại, có lúc tôi đang chạy xe, đang cắm hoa, ý tưởng cũng nhảy ra, tôi phải ghi chú lại liền vì nếu không lại trôi đi khi ý tưởng khác loé lên.



Tôi cũng có một nguyên tắc nhỏ: “Làm ít, nhưng sâu”. Dù là quay một video, sản xuất một chương trình hay chuẩn bị cho buổi chia sẻ, tôi luôn hỏi: “Điều này có thật sự mang lại giá trị cho ai đó không?”. Nếu câu trả lời là có, tôi sẽ dốc hết tâm.
Có lẽ bí quyết thật sự không nằm ở việc làm được nhiều thứ, mà là giữ được mình nguyên vẹn trong mọi thứ mình làm.
PV: Trong công việc sáng tạo, chị có bao giờ đối mặt với thất bại hoặc sự nghi ngờ từ người khác? Và chị đã vượt qua những khoảnh khắc đó ra sao?
Có chứ, rất nhiều là đằng khác. Tôi vẫn nhớ, tôi từng hai lần đạt giải quốc gia môn Văn, nhưng lại trong chính sự nghi ngờ của những người xung quanh. Bạn bè cùng lớp từng nói tôi chỉ “may mắn”, nói nhiều đến mức tôi tin điều đó là thật.
Năm lớp 11, tôi đạt giải khuyến khích. Năm lớp 12, vì sợ “năm nay không còn may nữa”, tôi viện cớ bị bệnh để không dự thi vòng tuyển chọn của trường. Tôi sợ nếu thi mà rớt, mọi người sẽ nói đúng rằng “cô ấy hết may rồi.” Nhưng đúng như cái cách mà cuộc đời luôn sắp đặt theo một hướng riêng, tôi vẫn phải đi thi, vì là thí sinh duy nhất còn lại có giải năm trước. Và năm đó, tôi đạt giải Nhì quốc gia, cũng là giải Nhì đầu tiên của tỉnh tôi ở môn Văn lúc bấy giờ. Sau này nhìn lại, tôi nhận ra: đôi khi cuộc đời sẽ đẩy ta đến nơi mình sợ nhất, để mình biết rằng mình mạnh hơn mình nghĩ.

Làm sáng tạo cũng vậy, luôn có những ánh nhìn nghi ngờ, những lời nói “liệu có làm nổi không?”, “có đi xa được không?” , “chắc sẽ thất bại thôi” ngay chỉ khi mới bắt đầu. Có những dự án tôi đặt cả trái tim, nhưng kết quả không như mong đợi. Cảm giác hụt hẫng là thật. Nhưng tôi hiểu rằng sự nghi ngờ của người khác phản chiếu nỗi sợ bên trong chính họ, chứ không phản ánh giá trị của mình.
Tôi học cách nhìn thất bại bằng sự tò mò hơn là phán xét: “Tại sao điều này không hiệu quả?”, “Cảm xúc nào trong tôi đang bị chạm?”. Khi mình hỏi những câu hỏi đúng, mình không còn mắc kẹt trong lỗi lầm, mà bắt đầu bước ra khỏi nó. Tôi cũng có một nguyên tắc nhỏ: Khi mệt, không dừng chỉ nghỉ. Tôi cho phép mình lùi lại một chút, dành thời gian tĩnh, đọc sách, ngồi thiền, làm nến… Vì tôi tin, sự im lặng là nơi ý tưởng mới được sinh ra. Và rồi, khi quay lại, tôi luôn thấy mình vững hơn, rõ hơn, và… nhẹ hơn.
Tôi không nghĩ mình vượt qua bằng “ý chí thép”, mà bằng sự kiên nhẫn và lòng tin. Vì cuối cùng, làm sáng tạo không phải để chứng minh mình đúng mà là để sống thật với điều mình tin, và để kể lại những câu chuyện mà chỉ khi mình đi qua, mới có thể kể bằng cả trái tim.
- NGỌN NẾN NHỎ VÀ NHỮNG CÂU CHUYỆN CHẠM ĐẾN TRÁI TIM
PV: Điều gì là “chất liệu” không thể thiếu trong mọi dự án của Phan Thảo Phương, dù là phim, talkshow hay một chiếc nến hoa nhỏ bé?
Với tôi, chất liệu quan trọng nhất không phải là ý tưởng, kỹ thuật hay ngân sách mà là con người và cảm xúc thật. Dù là khi tôi viết kịch bản phim, tổ chức một talkshow, hay chỉ tỉ mẩn tạo dáng cho một bông nến hoa, tôi đều bắt đầu từ một câu hỏi: “Điều này sẽ khiến ai đó cảm thấy gì?” hay đơn giản “bản thân mình cảm thấy thế nào khi làm điều này?” Nếu câu trả lời là “họ sẽ được chạm, được an ủi, hoặc được mỉm cười một chút” hay tâm tôi thấy hứng khởi, bình an thì dự án ấy xứng đáng để làm.

Tôi nhớ có lần trong workshop Trạm Cảm Xúc, một bạn trẻ nói rằng bạn không thể mở lời với mẹ suốt nhiều năm. Khi tham gia buổi vẽ cảm xúc, bạn ấy vẽ một bức tranh chỉ toàn màu xám và nói: “Con chưa từng dám nói rằng con buồn”. Cuối buổi, bạn tặng lại bức tranh đó cho mẹ mình. Hai người ôm nhau trong nước mắt. Khoảnh khắc ấy khiến tôi hiểu, khi cảm xúc được chạm, nghệ thuật mới thật sự sống.
Hay với WaMe Candle (một thương hiệu nến handmade của tôi), khi một khách hàng nhắn rằng cô ấy mua nến hoa để cúng người cha đã mất, và nói: “Nhìn ngọn nến cháy, con thấy như ba đang mỉm cười”. Tôi đã ngồi lặng rất lâu nghe tiếng cô ấy khóc qua điện thoại gọi cho tiệm mà nhói lòng. Đôi khi, điều nhỏ bé mình làm lại có thể chạm đến phần sâu nhất trong ký ức của ai đó. Trong tâm lý học, người ta gọi đó là emotional imprint – “dấu vân tay cảm xúc.” Mỗi điều ta làm bằng sự chân thành sẽ để lại một vết in trong lòng người khác, và đôi khi chính vết in ấy khiến họ nhớ mãi.
Tôi nghĩ, dù là phim, talkshow hay chiếc nến hoa nhỏ bé, thì “chất liệu” không bao giờ thay đổi: đó là trái tim con người. Là sự chân thành, tử tế và niềm tin rằng, dù thế giới có ồn ào đến đâu, chỉ cần một điều được làm bằng tình thương nó sẽ luôn tìm được đường để chạm đến trái tim người khác.


PV: Nghe nói chị còn điều hành shop nến hoa, một mô hình vừa nghệ thuật vừa kinh doanh. Câu chuyện đằng sau ý tưởng ấy là gì?
Thật ra, WaMe Candle ra đời trong một giai đoạn rất đặc biệt: năm 2025, khi tôi quyết định dành cho mình một gap year.
Sau nhiều năm chạy liên tục trong các dự án truyền thông, sản xuất, giảng dạy, tôi nhận ra mình đã quen sống trong “chế độ làm việc” mà quên mất cảm giác sống chậm và lắng nghe chính mình. Năm đó, tôi cho phép bản thân được dừng lại: đi du lịch, đọc sách, học thêm những điều mình thích: từ làm gốm, vẽ, đến cả… học làm nến. Và rồi, chính trong khoảnh khắc tưởng chừng chơi cho vui ấy, tôi lại tìm thấy một cách sống mới.
Khi ngồi đổ sáp, chọn màu, cắm từng cánh hoa, tôi nhận ra sự tĩnh lặng trong tâm mình. Từng hoa nến dường như chứa cả hơi thở, cảm xúc và năng lượng mà tôi gửi vào. Từ đó, WaMe Candle – Nến Hoa Cảm Xúc ra đời.
“WaMe” vừa là Wake Me – “đánh thức tôi”, vừa là Hòa – Mình: hòa mình với cảm xúc. Tôi muốn tạo ra một thương hiệu không chỉ bán sản phẩm mà mang lại một trải nghiệm cảm xúc để mỗi người khi châm nến đều có thể nhìn lại mình: dịu dàng, sâu sắc hơn.

Có một khách từng nhắn cho tôi: “Tôi mua nến hoa về thắp trong lễ giỗ của mẹ. Nhìn ngọn nến cháy, tôi thấy như mẹ vẫn đang ngồi đó, mỉm cười”. Khi đọc tin ấy, tôi đã lặng người. Tôi hiểu rằng, điều mình đang làm không chỉ là nghệ thuật thủ công, mà là một hình thức kết nối cảm xúc giữa người với người, giữa hiện tại và ký ức.
Khi con người chạm được vào cảm xúc thật của mình, quá trình chữa lành bắt đầu. Và đôi khi, chỉ cần một ngọn nến, một mùi hương, một màu hoa cũng đủ để đánh thức điều ấy. Nên với tôi, WaMe Candle không chỉ là thương hiệu, mà là một hành trình tỉnh thức nơi mỗi ngọn nến được thắp lên không chỉ để tỏa sáng, mà để soi lại lòng mình.
(Còn tiếp kỳ sau. Mời bạn đón đọc “Kỳ 2 – Phan Thảo Phương: Học để hiểu mình và sống có ích” trên Hotstar.vn)
Theo Trương Quốc Phong/Hotstar.vn




